VỤ ÁN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (P1)

Tình Huống Vụ Án:

       Hai chị T và L uống rượu say, say đến mức không nhận thức, làm chủ được hành vi rồi đi loạng choạng và nằm gục ở dọc đường. A phát hiện chị T và L nằm bên đường. Thấy chị L đeo nhiều nữ trang bằng vàng, A lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 26 triệu đồng. A là người có năng lực trách nhiệm hình sự.

       Đến sáng chị L tỉnh say mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Như vậy, trong tình huống này, A đã có hành vi cấu thành nên tội phạm nào?

PHÂN TÍCH

Hành vi của A đã cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản:

Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015). Điều 173 không mô tả những dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản mà chỉ nêu tội danh. Nhưng qua các tài liệu nghiên cứu khoa học chuyên sâu và thực tiễn xét xử có thể hiểu: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.

Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị lấy tài sản, chỉ sau khi hành vi của người phạm tội đã hoàn thành thì họ mới biết mình bị mất tài sản.

 

Cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản:

* Chủ thể của tội phạm:

Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu các khung hình phạt rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng của tội trộm cắp tài sản. (Khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017)

* Khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Trong tình huống trên, A không hề xâm hại đến quan hệ nhân thân của chị T và L mà chỉ có hành vi xâm phạm đến tài sản của chị L, cụ thể là lấy đi toàn bộ số nữ trang bằng vàng của chị L.

* Mặt khách quan:

Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.

* Mặt chủ quan

Đây là lỗi cố ý trực tiếp, tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng mong muốn thực hiện đến cùng nhắm chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích: Mong muốn chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức.

 

 Một số dạng trộm cắp tài sản có tính chất đặc thù như sau:

  1. Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi có điều kiện sẽ lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản;
  2. Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người, chen lấn xô đẩy để chiếm đoạt tài sản của người khác;
  3. Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài sản hoặc người tài sản không trực tiếp quản lý nên đã chiếm đoạt;

Đặc trưng hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu lén lút. Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở các tội xâm phạm sở hữu khác, dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành đó.

Hành vi chiếm đoạt có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi có hành vi này xảy ra.

Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản, đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản vẫn là công khai.

Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người phạm tội trong phần lớn vẫn là lén lút, che giấu đối với người khác.

 

Áp dụng vào vụ án:

Trong tình huống trên, A đã lợi dụng lúc chị L và T say rượu nằm mê mệt bên đường nên đã chiếm đoạt tài sản của chị L. Ta thấy trong tình huống rõ ràng là:  A phát hiện chị L và T nằm say gục dọc đường. Thấy chị L đeo nhiều nữ trang bằng vàng,  A đã lấy đi  toàn bộ tài sản trị giá 26 triệu đồng.

Đến sáng cơn say hết, chị L tỉnh mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Để xác định hành vi phạm tội của A trong tình huống này ta cần xác định “tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản có biết hay không” là vấn đề cần thiết phải làm rõ, bởi nó liên quan đến bản chất của hành vi chiếm đoạt. Trong tình huống này, chị L là chủ tài sản, do say rượu nằm mê mệt bên đường  nên trong khi bị chiếm đoạt tài sản không hề biết mình bị chiếm đoạt tài sản. Phải đến sáng hôm sau tỉnh giấc chị L mới biết mình bị mất tài sản.

Như vậy, dấu hiệu “thời điểm mất tài sản” là mốc thời gian, xác định việc tài sản đã bị chiếm đoạt và không nằm trong vòng kiểm soát của chủ tài sản nữa. Tại thời điểm này, chủ tài sản (chị L) không biết việc mình bị mất tài sản và đây chính là hệ quả của hành vi “lén lút”. Bởi chỉ có “lén lút” mới làm chủ tài sản không biết mình bị mất tài sản.

Mặt khác, trị giá tài sản bị các đối tượng chiếm đoạt là 26 triệu đồng, thỏa mãn dấu hiệu được nêu trong Điều 173 BLHS (từ hai triệu đồng trở lên ). Hành vi của A được thực hiện với lỗi cố ý. Mục đích cuối cùng của A là mong muốn chiếm đoạt tài sản của trị L, cụ thể là số nữ trang bằng vàng trên người của chị L.

 Căn cứ vào những phân tích trên, căn cứ vào khách thể và mặt khách quan của tội phạm ta thấy, A có đủ những dấu hiệu để cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *