Nhiều người thắc mắc liệu bị áp dụng biện pháp ngăn chặn có phản ánh rằng người đó đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Để làm rõ vấn đề này, Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV Công Phúc có giải đáp như sau.
Đầu tiên là căn cứ pháp lý:
– Khoản 1 điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
– Khoản 1 điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Căn cứ theo khoản 1 điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:
“Điều 109. Các biện pháp ngăn chặn
1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.
Như vậy, biện pháp ngăn chặn được áp dụng khi có 1 trong 4 căn cứ:
– Một là, để kịp thời ngăn chặn tội phạm.
– Hai là, khi có căn cứ chửng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
– Ba là, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội.
– Bốn là, để đảm bảo thi hành án.
Hiện nay, không có quy định pháp luật cụ thể về truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của BLHS 2015, truy cứu trách nhiệm hình sự có thể được hiểu là việc buộc người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà BLHS 2015 quy định là tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ gây ra theo tội danh và hình phạt được quy định tại BLHS 2015.
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người đang trong thời gian bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Trong thời gian này, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng hình thức tạm giam hay cấm đi khỏi nơi cư trú.
Ngoài ra, căn cứ theo khoản 1 điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:
“Điều 123. Cấm đi khỏi nơi cư trú
1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án.”
Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với bị can, bị cáo. Theo đó:
– Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự (Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
– Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Như vậy, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn có thể được coi là đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự.